Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mãi mãi đi xa. Song Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm rất nhiều những quan điểm cơ bản, trong đó có quan điểm về “đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân”.
Năm 1947, trong lần về thăm Thanh Hóa, Người căn dặn cán bộ, đảng viên: “Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân. Trước kia sức dân, của dân làm lợi cho đế quốc, nay đem làm lợi cho dân”[1]. Đây là một triết lý vô cùng độc đáo và hết sức sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quan điểm này thể hiện ở những nội dung cụ thể sau:
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về nhu cầu, lợi ích của nhân dân
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề nhu cầu lợi ích của nhân dân và làm thế nào để đem lại lợi ích, hạnh phúc cao nhất cho nhân dân. Người đã từng nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”[2]. Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn khai thác, tìm tòi những nhu cầu lợi ích thiết thân và chính đáng của nhân dân để nhân dân đem hết tài năng, trí lực, sáng tạo của mình hăng hái tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội như: nhu cầu được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột thực dân; nhu cầu lợi ích về kinh tế; nhu cầu lợi ích về tinh thần; nhu cầu học hành, nâng cao dân trí; nhu cầu về quyền làm chủ của nhân dân.
- Về nhu cầu được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột thực dân: Năm 1858, thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam, chúng muốn biến Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Sự áp bức, bóc lột tàn bạo, dã man của thực dân Pháp làm cho nhân dân ta ai cũng có mong muốn, nhu cầu được giải phóng khỏi ách thực dân. Vì vậy, nhân dân ta không ngừng nổi lên chống lại chúng. Song, một loạt các phong trào yêu nước của nhân dân ta đều lần lượt thất bại, đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng đường lối tưởng chừng không có đường ra, cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài nô lệ. Trước tình hình đó, nhu cầu của mỗi người dân Việt Nam lúc bấy giờ là phải tìm ra con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Sau một quá trình bôn ba đến nhiều nước trên thế giới, nghiên cứu các cuộc cách mạng lớn, các học thuyết nổi tiếng trên thế giới, Người đã tìm ra con đường cứu nước duy nhất đúng đắn cho dân tộc: Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Về nhu cầu lợi ích kinh tế: Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng và lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến nhu cầu lợi ích kinh tế của nhân dân, từ những nhu cầu lớn đến những nhu cầu nhỏ. Người thường nhắc nhở cán bộ phải chăm lo đến đời sống nhân dân, “phải quan tâm đến điều kiện sinh hoạt vật chất của nhân dân. Cán bộ từ trên xuống dưới phải chăm nom đến chỗ ăn, chỗ ở, chỗ làm việc của công nhân... tổ chức nhà ăn, nhà ở, nhà gửi trẻ cho tốt, cho chu đáo”[3]. Người khẳng định: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”[4]. Sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến đời sống vật chất của nhân dân không chỉ bằng lời nói, bằng các chỉ thị mà còn bằng những việc làm rất cụ thể hàng ngày. Hầu hết các cuộc đi thăm nông dân, công nhân, bộ đội, học sinh, Người đều đến kiểm tra các bữa ăn của họ để nắm được chế độ dinh dưỡng hàng ngày, trên cơ sở đó mà có chính sách phù hợp để không ngừng đáp ứng nhu cầu nâng cao đời sống vật chất của các tầng lớp nhân dân.
- Về nhu cầu, lợi ích tinh thần: bao gồm nhu cầu được học hành, nâng cao dân trí; quyền làm chủ của nhân dân phải được phát huy rộng rãi trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngoài ra, nhu cầu lợi ích tinh thần của nhân dân còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến trên những nội dung sau: Phát triển văn hóa “nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”; Xây dựng và phát triển con người mới xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, những nhu cầu lợi ích của nhân dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến chính là những nhu cầu lợi ích lớn nhất của đất nước, cũng chính là mong muốn, khát vọng mãnh liệt của Người. Những lợi ích và nhu cầu thiết thân đó của nhân dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức như của chính mình và Người đã cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân để thực hiện những nhu cầu và lợi ích ấy thông qua đường lối, chính sách, luật pháp, những cơ chế, những giải pháp... phù hợp với từng thời kỳ và từng đối tượng.
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về các nguồn lực vốn có trong nhân dân như: nguồn lực của cải, tài chính; nguồn lực sức lao động; nguồn lực trí tuệ.
- Về nguồn lực của cải, tài chính: Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra”[5] ; “... Nhân dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hoá, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”[6] . Nguồn lực của cải, tài chính trong nhân dân là rất nhiều, Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên phải biết dựa vào dân, phát huy nguồn lực của cải, tài chính trong dân để làm cho dân giàu, nước mạnh. Với Người, từ việc to đến việc nhỏ, từ xa đến gần, dựa vào dân, huy động sức dân là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.
- Về nguồn lực sức lao động: Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng lao động, coi người lao động là vốn quý nhất và Người đòi hỏi phải tổ chức lao động cho tốt để tiết kiệm sức lao động. Người nói: “Phải biết quý trọng sức người là vốn quý nhất của ta. Chúng ta cần hết lòng chăm sóc sức khỏe và sử dụng thật hợp lý sức lao động của nhân dân ta”[7]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của lao động. Người từng khẳng định: “Xã hội có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, là nhờ lao động. Xây nên giàu có, tự do, dân chủ cũng là nhờ lao động. Trí thức mở mang cũng nhờ lao động (lao động trí thức). Vì vậy, lao động là sức chính của sự tiến bộ loài người. Cũng là sức mạnh của sự giải phóng dân tộc.”[8] . Với lao động, con người đã tạo ra lịch sử của chính mình, với lao động, con người đã cải tạo tự nhiên, cải biến xã hội và nâng mình lên thành chủ nhân chân chính của tự nhiên và xã hội. Lao động chính là bản chất của con người, vì thế, lao động là đặc điểm chung của nhân loại, tất nhiên là sự cần cù, chịu khó mỗi nước là khác nhau, điều đó phụ thuộc vào phong tục tục tập quán, điều kiện tự nhiên và sự phát triển của khoa học - kỹ thuật.
Tuy nhiên, để lao động của nhân dân đạt hiệu quả cao, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Mỗi người công nhân, nông dân, trí thức, cán bộ, viên chức, đều phải hiểu nghĩa vụ vẻ vang của mình là phục vụ sản xuất... Muốn phát triển sức sản xuất thì trước hết phải nâng cao năng suất lao động và muốn nâng cao năng suất lao động thì phải tổ chức lao động cho tốt”[9]. Để phát huy được nguồn lực lao động của nhân dân thì phải hiểu lao động thế nào cho khoa học, phải có phương thức, cách thức đúng đắn để phát huy nguồn lực đó.
- Về nguồn lực trí tuệ: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ cũng là trí thức, là sự hiểu biết, là tài năng. Người coi “dốt cũng là một thứ giặc”, “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người cho rằng, muốn phát triển kinh tế, xã hội cần phải huy động được trí tuệ của nhân dân: “Quần chúng rất nhiều sáng kiến, họ hiểu biết rất mau, nhất là những cỏi thuộc về quyền lợi của họ”[10]. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là vốn liếng quý báu của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân là những con người sáng tạo nhất, thông minh nhất; quần chúng nhân dân có thể giải quyết được mọi khó khăn. Vì thế, nhiều lần Người nhắc nhở: Có những việc rất đơn giản, cán bộ, đảng viên nghĩ mãi không ra nhưng quần chúng nhân dân lại có cách giải quyết rất đơn giản, đầy đủ và hiệu quả. “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[11]
Người cho rằng, để phát huy được tài năng của con người thì phải biết dùng người đúng và khéo. Giữa đúng và khéo có quan hệ chặt chẽ với nhau, đúng mà không khéo thì kết quả sẽ bị hạn chế. Khéo mà không đúng thì nhất định sẽ hỏng việc, có khi còn hỏng cả "người". Khéo phải đảm bảo dẫn đến cái đúng, cái khách quan, khéo là một nghệ thuật. Trong cái đúng không thể không có cái khéo và khéo dùng người phải hướng tới đúng, lấy đúng làm tiền đề, làm nguyên tắc. Trong cái nọ có cái kia, không thể tách rời giữa hai cái. Đây là biện chứng của thuật dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như vậy, quan điểm “đem sức dân, tài dân, của dân làm lợi cho dân” có nghĩa là phát huy các nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, tức là đem toàn bộ những sức người, sức của, tinh thần, vật chất, tài năng, của cải, tài sản trong dân để làm lợi cho dân.
Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về những biện pháp phát huy nguồn lực của nhân dân để làm lợi cho nhân dân
Muốn đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân thì cán bộ từ trên xuống dưới, từ trung ương đến địa phương; từ Đảng, chính quyền cho đến các cơ quan, tổ chức, đoàn thể; từ cán bộ lãnh đạo cho đến mọi đảng viên, tất cả phải hết lòng hết sức vì dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phải là người đầy tớ thật sự trung thành của nhân dân. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.[12]
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán chủ nghĩa cá nhân vì nó lấy của dân làm lợi cho cá nhân mình, do đó nó là một thứ “rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”. Người cho rằng: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân. Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó.”[13]
Người cán bộ phải biết đặt lợi ích của dân tộc, tập thể lên trên lợi ích cá nhân, phải biết quên mình cho nghĩa lớn. Hồ Chí Minh nói: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[14].
Muốn phát huy các nguồn lực của nhân dân, Đảng, chính quyền, mỗi cá nhân phải có lòng thương yêu vô hạn, sự cảm thông, sự tin tưởng tuyết đối vào con người, ý chí đấu tranh để giải phóng con người. Người nhấn mạnh mối quan hệ giữa tin dân với dân tin và đòi hỏi phải thực hiện cho được đức tin đó. Theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên "trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vô cùng vô tận". Cán bộ, đảng viên phải là công bộc, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Phải kiên quyết chống bệnh quan liêu, những căn bệnh cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo và nhất là chủ nghĩa cá nhân. Đồng thời, muốn cho dân tin, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Thấy dân làm việc gì, bất kỳ to nhỏ, ta cũng ra tay làm giúp. Đó là cách gây cảm tình tốt nhất, nó sẽ giúp cho việc tuyên truyền kết quả gấp bội. Thái độ phải mềm mỏng: đối với các cụ già phải cung kính, với anh em, phải khiêm tốn, với phụ nữ, phải nghiêm trang, với nhi đồng, phải thân yêu, với cả mọi người, phải thành khẩn. Mong anh em đi tuyên truyền làm đúng như thế, thì chắc sẽ thành công to”[15].
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thương yêu vô hạn, sự cảm thông, tin tưởng tuyệt đối vào con người, quyết tâm phấn đấu giải phóng con người trở thành tiền đề đầu tiên để có thể phát huy, huy động được các nguồn lực vốn có trong nhân dân.
Để phát huy các nguồn lực vốn có trong nhân dân, Hồ Chí Minh cùng Đảng, Chính phủ hoạch định, xác lập một hệ thống chính sách tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn, phục vụ cho lợi ích của dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, bao quát các lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là những vấn đề an sinh xã hội. Người nhấn mạnh: “Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất. Ở đây nói về kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập nửa ngày lao động. Củng cố quốc phòng. Chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc..."[16].
Một trong những biện pháp quan trọng nhằm phát huy các nguồn lực của nhân dân để làm lợi cho dân là những giải pháp về giáo dục. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho con người, đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển, cho tương lai.
Như vậy, vấn đề phát huy các nguồn lực của nhân dân - sức dân, tài dân, của dân - được Hồ Chí Minh đề cập với nội dung sâu sắc và toàn diện, đầy tính cách mạng và khoa học. Không chỉ đánh giá cao vị trí, vai trò của nhân dân, thấy được tính tất yếu của vấn đề phát huy các nguồn lực của nhân dân, Hồ Chí Minh đã xây dựng được một hệ thống các giải pháp toàn diện, coi việc thực hiện đúng đắn các giải pháp đó là khâu then chốt, quyết định thành công trong bài toán phát huy các nguồn lực đó.
Tóm lại, để thực hiện được triết lý “đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”, chúng ta phải đẩy mạnh dân chủ, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tức là Nhà nước cần thực hiện cho được 4 mục tiêu: Làm cho dân có ăn - Làm cho dân có mặc - Làm cho dân có chỗ ở - Làm cho dân có học hành. Do đó, Người yêu cầu tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào dân, liên hệ mật thiết với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của dân, nếu các cơ quan đó không đáp ứng được lợi ích, nguyện vọng của dân thì dân có quyền bãi miễn. Nhà nước vì dân là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân cần phải quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục dựa vào dân, gần dân, tin dân và phải làm cho dân tin; phải chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, phải thực hành và mở rộng dân chủ... để nhân dân có điều kiện tham gia đóng góp sức lực, tài năng cho sự phát triển của đất nước. Nhân dân là một tập hợp không đồng nhất, do đó cần phải có phương pháp tuyên truyền vận động, tổ chức lãnh đạo nhân dân thật khoa học. Chính vì vậy, quan điểm ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân thực sự là một sự bổ sung, đóng góp lớn cho cho kho tàng lý luận cách mạng dân tộc và thời đại về phát huy sức mạnh của nhân dân.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới của nước ta gần 35 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và đang dần khẳng định những thành công bước đầu. Tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam đang đứng trước hàng loạt vấn đề cần giải quyết trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là vấn đề phát triển kinh tế nhanh và bền vững; phòng chống dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống ; khắc phục sự chênh lệch giàu nghèo, đảm bảo chính sách an sinh, giáo dục cho mọi tầng lớp dân cư; đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc và hành động phá hoại của các thế lực thù địch… Điều đó, đòi hỏi Đảng phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện để nâng cao vai trò lãnh đạo của mình, phát huy cao nhất sức mạnh của quần chúng nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng ta đã biết huy động sức dân, của dân, tài dân để giải phóng đất nước, giải phóng nhân dân. Hiện nay, chúng ta đang xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, trong đó nhân dân là chủ thể tối cao, duy nhất của quyền lực nhà nước; Nhân dân bầu lên các cơ quan quyền lực nhà nước; Nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà nước và xã hội; Nhân dân tham gia vào việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức. Nhà nước đó hoạt động với mục tiêu duy nhất là đem lại lợi ích và phục vụ nhân dân. Bởi vậy, chỉ khi nào Đảng, Nhà nước “lấy sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân” mới có thể thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, Hưng Yên có diện tích không lớn, nhưng lại có vị trí địa lý quan trọng. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, Hưng Yên được coi là cửa ngõ phía đông của thủ đô Hà Nội, trấn giữ các con đường thủy và bộ từ các tỉnh duyên hải Bắc bộ về thủ đô. Cùng với sự bồi tụ của phù sa sông Hồng, sông Luộc, trong sự phát triển của mình, Hưng Yên còn có sự bồi tụ của các lớp trầm tích văn hóa mang đặc trưng phong cách châu thổ của nền văn minh lúa nước. Thương cảng Phố Hiến của Hưng Yên được xem như là “khu kinh tế mở” dưới thời phong kiến, sầm uất như một “tiểu Tràng An” và đã được lưu truyền thành câu ca “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Nhiều danh nhân là con em của quê hương Hưng Yên đã góp phần không nhỏ làm nên diện mạo văn hóa Việt Nam…
Hưng Yên là quê hương của cụ Hoàng Xuân Đường (ông ngoại của Bắc), cũng là tỉnh vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh dành những tình cảm đặc biệt. Là Chủ tịch nước, dù bận trăm công ngàn việc nhưng Hưng Yên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm 10 lần. Riêng năm 1958, Bác đã về thăm Hưng Yên 5 lần. Trong những lần về thăm, Bác thường động viên, khích lệ nhân dân Hưng Yên để có thể phát huy tốt nhất tinh thần, tài dân, sức dân phát triển sản xuất, xây dựng tình đoàn kết gắn bó. Người còn dành thời gian viết 14 lá thư thăm hỏi, động viên cán bộ và nhân dân Hưng Yên; 20 lần ký sắc lệnh khen thưởng cho tập thể và tặng Huy hiệu của Người cho 67 cá nhân từ các cháu thiếu niên nhi đồng, chiến sĩ dân quân, bộ đội, giáo viên đến các cụ phụ lão, những người con Hưng Yên có thành tích trong chiến đấu, lao động, rèn luyện và học tập… Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo và tình cảm mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành cho, tỉnh Hưng Yên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và đạt được nhiều thành tích nổi bật trong kháng chiến và trong quá trình phát triển.
Từ khi tỉnh Hưng Yên được tái lập đến nay (từ ngày 1/1/1997 đến nay), trên cuộc hành trình cùng với cả nước trong gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đã năng động tìm ra sức bật mới với những bước đi mạnh dạn, cách làm sáng tạo. Thực hiện tâm nguyện và di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân, Đảng bộ và các cấp, các ngành trong tỉnh thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân, huy động toàn dân tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân thụ hưởng”. Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, những năm qua, trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện nhiều điển hình tự nguyện hiến đất, ngày công lao động, hỗ trợ kinh phí… để làm đường giao thông nông thôn và các công trình thiết chế văn hóa khác. Việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân trong xây dựng chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh cũng được các cấp, ngành và địa phương trên địa bàn tỉnh thực hiện thường xuyên. Qua đó, tiếp nhận được nhiều ý kiến, giải pháp hay cho việc tổ chức thực hiện và đạt nhiều thành tựu quan trọng:
Từ một tỉnh thuần nông, điểm xuất phát kinh tế thấp, đến nay Hưng Yên đã xây dựng được một nền tảng kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ, vững chắc. Kinh tế hàng năm tăng trưởng cao hơn bình quân chung của cả nước với GRDP tăng bình quân giai đoạn 2011-2020 đạt 8,45%/năm. Năm 2019, tổng sản phẩm (GRDP) của địa phương tăng 9,72%, cao nhất trong vòng 8 năm gần đây. Chất lượng tăng trưởng được nâng lên rõ rệt. Tổng sản phẩm bình quân đầu người đạt 74,57 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng hiện đại với: công nghiệp - xây dựng 62,15%; thương mại và dịch vụ 29,41%; nông nghiệp - thủy sản 8,44%. Nếu năm 1997, thu ngân sách trên địa bàn tỉnh chỉ đạt 80 tỷ đồng thì đến năm 2019 là 16.168 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, công tác giảm nghèo luôn được tỉnh đặc biệt quan tâm đầu tư, thực hiện. Các chương trình, đề án giảm nghèo được triển khai đồng bộ, đạt nhiều kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giai đoạn 2016-2020 giảm trung bình 1,42%/năm, từ 6,81% năm 2015 xuống còn 2,55%/năm 2018. Năm 2019 là 1,9%. Những năm gần đây, diện mạo cơ sở hạ tầng, đời sống Nhân dân trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, nhất là ở vùng nông thôn đang có nhiều thay đổi. Dấu ấn nổi bật trong năm 2019 là toàn tỉnh đã có 4.676 hộ thoát nghèo, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 1,9%. Toàn tỉnh có 04 huyện, thị xã, thành phố đạt huyện nông thôn mới và 145/145 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Hưng Yên trở thành 1 trong 8 địa phương trong cả nước hoàn thành 100% xây dựng NTM cấp xã.
Có được những kết quả trên có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan trọng là do Đảng bộ và các cấp, ngành trong tỉnh đã vận dụng và thực hiện tốt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân.
Có thể nói, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân” là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và của dân tộc Việt Nam, là một quan điểm hết sức quý báu. Sức sống và giá trị của quan điểm này vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, định hướng cho công cuộc đổi mới nói chung, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói riêng, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nguyễn Duy Hưng, Phó Bí Thư Thường trực Tỉnh ủy
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.75.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.272
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.21.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.518.
[5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.247.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.66.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.70.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.514.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.68-69.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.48.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.335
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64 – 65.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.672.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.192.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.617.