|
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo hội nghị. (Ảnh: TTXVN) |
Ngày 13-8, tại Hà Nội, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30. Nhân Dân điện tử trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu.
Thưa các vị đại biểu, các vị khách quý,
Thưa các đồng chí,
Hôm nay, tôi rất vui mừng đến dự Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 - một Hội nghị quan trọng không chỉ của ngành Ngoại giao mà còn là của toàn thể cán bộ làm công tác đối ngoại của đất nước. Trước hết, tôi xin gửi đến các nhà ngoại giao lão thành, các đồng chí đại biểu cùng toàn thể anh chị em cán bộ, công chức, viên chức, những người lao động ngành Ngoại giao đang công tác ở trong nước và ngoài nước lời chào thân thiết, lời thăm hỏi chân tình và lời chúc tốt đẹp nhất. Tôi nhiệt liệt hoan nghênh các đồng chí Trưởng cơ quan đại diện ngoại giao từ gần 100 địa bàn khác nhau trên thế giới mang về Hội nghị những thông tin, nhận định mới nhất nơi các đồng chí công tác; hoan nghênh đại diện lãnh đạo các tỉnh, thành trong cả nước về dự và chia sẻ với Hội nghị về tình hình công tác đối ngoại sinh động tại các địa phương.
Đây là dịp để chúng ta nhìn lại quá trình gần 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng về đối ngoại, trên cơ sở đó đề xuất các phương hướng, biện pháp để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đối ngoại trọng tâm cho những năm tới; đồng thời góp phần vào việc chuẩn bị tổng kết 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới và chuẩn bị Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Thưa các đồng chí,
Từ sau Đại hội XII của Đảng, tình hình thế giới và trong nước bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng có nhiều vấn đề mới nảy sinh khó khăn hơn trước; mục tiêu và yêu cầu đối với công tác đối ngoại cũng cao hơn trước như trong Báo cáo đã nêu, tôi không nhắc lại. Tuy nhiên, có thể khẳng định, với sự cố gắng nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, công tác đối ngoại của chúng ta trong gần 3 năm qua, đặc biệt là trong năm 2017 đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, trở thành một điểm sáng trong toàn bộ những thành tựu chung của đất nước. Nổi bật là:
- Công tác đối ngoại đã đóng góp rất quan trọng vào việc duy trì, củng cố môi trường hoà bình, ổn định, tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước những biến động nhiều mặt rất phức tạp trên thế giới và khu vực, những diễn biến không thuận của môi trường an ninh xung quanh, những tác động tiêu cực từ bên ngoài, chúng ta đã tiếp tục có những quyết sách đúng đắn, bước đi phù hợp để phục vụ phát triển kinh tế, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, an ninh, quốc phòng, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Ta đã chủ động, tích cực vận động, thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết những bất đồng và vấn đề tồn tại liên quan đến việc phân định ranh giới biển, vừa bảo vệ được quyền chủ quyền và quyền tài phán của ta, đồng thời cùng các nước khác tiến hành công tác cắm mốc giới, mở các cửa khẩu mới quản lý đường biên giới và các hoạt động hợp tác xuyên biên giới, làm cho các đường biên giới trên bộ vừa là đường biên giới hoà bình, hữu nghị vừa là đường biên giới phát triển.
- Công tác đối ngoại đã phục vụ thiết thực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại. Từ năm 2016 đến nay, tăng trưởng kinh tế luôn đạt cao hơn mức bình quân của giai đoạn 2011 - 2015. Các chỉ số kinh tế vĩ mô đều tích cực, nhất là đầu tư nước ngoài và xuất nhập khẩu. Đáng chú ý, mặc dù xu hướng bảo hộ nổi lên ở nhiều nơi trên thế giới, kim ngạch thương mại và thu hút vốn đầu tư, du lịch từ các đối tác chủ chốt năm sau vẫn tăng hơn năm trước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2017 đạt 35,88 tỷ USD, tăng 44,4% (cao nhất trong 10 năm qua), trong đó vốn giải ngân đạt 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016. Các đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỷ đô la ODA cho Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt mức kỷ lục 13 triệu lượt người. Đến nay, đã có tổng cộng 71 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường; ta đã ký kết 13 hiệp định thương mại tự do, trong đó có 10 hiệp định đã có hiệu lực. Hội nhập kinh tế tiếp tục tạo thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế nước ta.
- Công tác đối ngoại tiếp tục góp phần quan trọng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đưa quan hệ của Việt Nam với các nước, nhất là các đối tác ưu tiên, quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Quan hệ với các nước lớn tiếp tục được củng cố và thúc đẩy hài hoà, tranh thủ được các yếu tố tích cực, hạn chế những bất đồng để phục vụ nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao vị thế của quốc gia. Đến nay, ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 quốc gia, đối tác toàn diện với 11 quốc gia và quan hệ chiến lược đặc biệt với Lào và Cam-pu-chia. Các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện tiếp tục được thúc đẩy, phát huy được các mặt tích cực. Chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển, an ninh của đất nước; cụ thể hoá và đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào chiều sâu, thực chất, tạo sự đan xen gắn kết giữa lợi ích của ta với các nước.
- Chúng ta đã đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên mọi mặt, tiếp tục phát huy vai trò tích cực tại các thể chế khu vực và toàn cầu, trong đó nổi bật là đã tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết, hợp tác và tự cường. Công tác đàm phán và tham gia các hiệp định thương mại tự do luôn được quan tâm, thúc đẩy. Đặc biệt, đã tổ chức thành công Năm APEC Việt Nam 2017, ta đã tranh thủ tốt vị trí nước chủ nhà, khẳng định được vai trò và khả năng của Việt Nam trong việc xử lý những vấn đề quốc tế và khu vực. Chủ động triển khai chiến lược đối ngoại về quốc phòng, an ninh phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, khai thác có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, vị thế của đất nước nhằm phục vụ mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Công tác bảo hộ công dân, ngư dân tiếp tục được quan tâm. Công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại, ngoại giao văn hoá được triển khai đồng bộ và hiệu quả. Chúng ta đã chủ động, kiên quyết đấu tranh trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài được thực hiện tốt; ngày càng có nhiều người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
- Công tác đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai khá đồng bộ, chặt chẽ, đạt nhiều kết quả quan trọng. Quan hệ giữa Đảng ta với các đảng cộng sản, công nhân và các chính đảng khác tiếp tục được củng cố thông qua các hoạt động trao đổi đoàn, trao đổi lý luận và tiếp xúc tại các diễn đàn đa phương. Quốc hội ta cũng mở rộng quan hệ quốc tế song phương và đa phương. Công tác đối ngoại nhân dân được triển khai với hình thức và nội dung ngày càng phong phú và đa dạng.
Những kết quả nêu trên đã khẳng định tính đúng đắn trong đường lối đối ngoại của Đại hội XII và các chủ trương liên quan đến công tác đối ngoại của Đảng ta. Chúng ta đã thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong các tình huống phức tạp, chúng ta đã "kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược", bám sát yêu cầu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, kết hợp với yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước. Trong các chủ trương, bước đi, chúng ta đã luôn có được sự đồng thuận, ủng hộ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.
Những kết quả đó có được là nhờ sự lãnh đạo chặt chẽ, thường xuyên của Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự điều hành chủ động, linh hoạt của Nhà nước, sự vào cuộc và sự triển khai tích cực của tất cả các cấp, các địa phương, các ngành, nhất là ngành Ngoại giao. Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước dành nhiều thời gian, công sức và nguồn lực cho công tác đối ngoại.
Đặc biệt, những kết quả đó có sự đóng góp rất quan trọng của đội ngũ cán bộ đối ngoại nói chung và cán bộ ngoại giao nói riêng, với tâm huyết, trách nhiệm và trình độ chuyên môn cao, luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với chế độ, luôn đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia - dân tộc, luôn cháy bỏng khát khao cống hiến và phục vụ. Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt biểu dương, chúc mừng và cảm ơn những đóng góp to lớn, rất có ý nghĩa đó của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nói chung, của ngành Ngoại giao nói riêng.
Tuy nhiên, chúng ta tuyệt nhiên không tự mãn với kết quả đã đạt được. Bởi vì trước mắt còn rất nhiều việc phải làm. Tôi đề nghị các đồng chí kiểm điểm thật kỹ, rút kinh nghiệm từ những thành tựu kể trên để xem chúng ta đáng lẽ có thể đạt kết quả nhiều hơn không, tốt hơn không, có bỏ lỡ hoặc không tận dụng triệt để cơ hội nào không? Trong quan hệ với các nước đối tác quan trọng, nhất là các nước lớn, có những "điểm nghẽn" nào cần tháo gỡ hoặc khâu "đột phá" nào cần mở ra? Các khuôn khổ quan hệ đã ký kết có tạo được hiệu quả tương xứng với tên gọi hay còn mang nặng tính hình thức? Có giúp xử lý một cách hiệu quả các vấn đề phát sinh, tăng cường xây dựng lòng tin không?
Đồng thời, cũng cần đánh giá kỹ những hạn chế trong công tác đối ngoại thời gian qua để chủ động khắc phục. Ví dụ như, công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình tuy ngày càng được chú trọng và nâng cao, nhưng đã được như mong muốn chưa; trong một số tình huống đã thật sự chủ động chưa, có bị động, bất ngờ không? Ta đã quan sát, phân tích, dự báo được sự biến động về địa chiến lược toàn cầu, khu vực liên quan trực tiếp đến môi trường an ninh của ta hay chưa? Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn ta đã theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình, nhất là sự điều chỉnh chiến lược và quan hệ của các nước lớn hay chưa? Phải chăng sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các địa phương còn có lúc thiếu chặt chẽ? Công tác đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ làm công tác đối ngoại có lúc, có nơi chưa hợp lý?...
Thưa các đồng chí,
Nhận định của Đại hội XII là "tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường" đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Chính vì thế, chúng ta cần thường xuyên theo dõi sát các diễn biến và dự báo đúng chiều hướng phát triển của tình hình bên ngoài và nhất là đánh giá thật kỹ các tác động đến Việt Nam, để không bị động, bất ngờ và có đối sách đúng. Phải chăng chúng ta đang đứng trước một số tình huống như:
- Môi trường đối ngoại trong những năm tới sẽ còn phức tạp, khó lường. Các đối tác lớn của ta đang trong quá trình điều chỉnh chiến lược, bối cảnh thế giới thường xuyên biến động, môi trường chính trị, an ninh, kinh tế khu vực và thế giới đang trở nên bất ổn với các tác động nhanh, mạnh và bất ngờ hơn. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn sẽ quyết liệt, chính trị cường quyền quay trở lại mạnh hơn, nhất là trong khu vực. Việc thực hiện nhiệm vụ bao trùm là giữ vững môi trường hoà bình, ổn định do đó sẽ gặp nhiều thách thức.
- Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia trên biển sẽ đứng trước một số thách thức mới. Đó là do sự biến động phức tạp của tình hình, sự thay đổi so sánh lực lượng, sự tính toán của các nước có liên quan, sự nổi lên của chủ nghĩa đơn phương, thiếu tôn trọng luật pháp quốc tế. Các cơ chế kiểm soát bất đồng, khủng hoảng trong khu vực chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả; các thể chế đa phương khó đạt được lập trường chung đủ mạnh. Tình hình trên thực địa tiếp tục phức tạp, nguy cơ va chạm, đụng độ chưa được đẩy lùi.
- Kinh tế đối ngoại có thể sẽ gặp những thách thức mới. Chủ nghĩa bảo hộ đang gia tăng ở các thị trường xuất khẩu lớn của ta. Chiến tranh thương mại giữa các nước lớn đang hiện hữu. Vai trò của các thể chế đa phương lớn như WTO, APEC đang bị đe doạ. Sự phát triển của khoa học, công nghệ cũng đang đặt ra những vấn đề mới đối với thương mại và đầu tư nước ngoài.
- Công tác đối ngoại đa phương cũng sẽ gặp thách thức hơn. Hiện nay, vai trò của các thể chế đa phương đang có xu hướng giảm đi trước lối hành xử chính trị cường quyền coi trọng song phương. Trong khi đó, một số cơ chế đa phương mới lại có xu hướng phục vụ cạnh tranh nước lớn. Ở trong khu vực, ASEAN vẫn còn nhiều khó khăn trong việc củng cố vai trò trung tâm.
Bên cạnh những khó khăn, thách thức, phải chăng chúng ta cũng có nhiều thời cơ, thuận lợi. Đó là:
- Các xu hướng lớn trong cục diện thế giới vẫn cơ bản có lợi cho ta. Dư địa để Việt Nam đẩy mạnh công tác đối ngoại nói chung và quan hệ với các nước quan trọng nói riêng đang tăng lên. Do đó, tuy tình hình thế giới phức tạp và biến động khó lường nhưng không vì thế mà giảm chủ trương hội nhập quốc tế và đẩy mạnh công tác đối ngoại vì đây là chủ trương nhất quán, đúng đắn của chúng ta, và đã được kiểm nghiệm trên thực tế.
- Sau hơn 30 năm đổi mới, chưa bao giờ đất nước ta có được thế và lực như hiện nay trên tất cả các mặt, từ kinh tế, chính trị đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khoa học - kỹ thuật. Đây là nền tảng căn bản, là chỗ dựa vững chắc cho công tác ngoại giao của ta trước một thế giới đầy biến động.
- Chúng ta còn có những thế mạnh mà nhiều quốc gia khác không dễ gì có được, đó là lòng yêu chuộng hoà bình, chính nghĩa, nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, tinh thần hoà hiếu và trách nhiệm trong quan hệ quốc tế. Các nước, nhất là các nước trong khu vực, đang tin vào Việt Nam có vai trò lớn hơn trong các diễn đàn khu vực và quốc tế, trong giải quyết các vấn đề lớn của khu vực và cả vấn đề mang tính toàn cầu.
- Chúng ta có sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, và với cơ chế thống nhất quản lý công tác đối ngoại ngày càng hoàn thiện; với sự phối hợp ngày càng chặt chẽ của các bộ, ban, ngành, địa phương với ngành Ngoại giao để triển khai các mặt công tác đối ngoại, hình thành nên một mặt trận đối ngoại toàn diện và thống nhất. Năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại ngày càng được nâng cao nhờ công tác đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống và kinh nghiệm tích lũy được qua hơn 30 năm đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
- Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (hơn 4,5 triệu người) ngày càng lớn mạnh, nhất là số lượng trí thức, du học sinh ngày càng đông (hiện có hơn 170.000 du học sinh Việt Nam đang học ở nước ngoài). Người Việt Nam ở nước ngoài hội nhập ngày một tốt hơn vào đời sống chính trị - xã hội ở nước sở tại; luôn hướng về Tổ quốc, có đóng góp ngày càng quan trọng vào việc thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam với đất nước nơi họ sinh sống.
Với những thuận lợi và khó khăn nêu trên, để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội, tôi đề nghị các đồng chí tiếp tục bám sát Nghị quyết Đại hội XII và các nghị quyết Trung ương, chương trình hành động của Chính phủ và của Bộ Ngoại giao để tiếp tục triển khai công tác đối ngoại. Các chủ trương, đường lối và nhiệm vụ đối ngoại lớn mà Đại hội XII thông qua vẫn là căn cứ và định hướng quan trọng để chúng ta đẩy mạnh công tác đối ngoại trong thời gian tới. Tôi tán thành với các định hướng, nhiệm vụ và giải pháp đã nêu trong Báo cáo của lãnh đạo Bộ, chỉ xin gợi mở, nhấn mạnh thêm một số vấn đề sau đây:
Một là, phải chăng chúng ta cần tiếp tục đổi mới tư duy trong công tác đối ngoại. Những diễn biến chính trị trên thế giới thời gian qua có rất nhiều vấn đề vượt ra ngoài dự báo thông thường. Nếu chúng ta không tiếp tục đổi mới thì không theo kịp sự phát triển của tình hình. Vấn đề là chúng ta dám nghĩ, dám làm, có tinh thần chủ động tiến công, dám vượt ra khỏi những tư duy, những lĩnh vực quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và quốc tế. Chúng ta cần xây dựng vị thế và tâm thế mới của Việt Nam trong xử lý quan hệ với các nước cả song phương và đa phương. Thế và lực của nước ta trên các tiêu chí quan trọng như kinh tế, dân số, quốc phòng và đối ngoại đã khác nhiều sau 30 năm đổi mới. Đặc biệt, các vấn đề thuộc lợi ích cốt lõi của Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải thể hiện tiếng nói mạnh mẽ hơn và lập trường đối ngoại tích cực hơn, trước hết ở trong khu vực. Đồng thời, chúng ta cũng phải đẩy mạnh tư duy đổi mới, mạnh dạn đột phá, sáng tạo trong công tác, tìm ra cách làm mới, mở rộng ra các lĩnh vực mới, tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới. Đương nhiên, đổi mới phải trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, kiên định mục tiêu và chân thành, khiêm tốn. Tôi tán thành với chủ đề của Hội nghị Ngoại giao lần này là "Chủ động, sáng tạo và hiệu quả".
Hai là, tiếp tục quán triệt thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc; vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tượng, đối tác; tăng cường hợp tác tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, ngăn ngừa xung đột, tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc. Trong đó, mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và các lợi ích chính đáng của ta theo luật pháp quốc tế. Trong việc bảo đảm môi trường hoà bình thì một trong những yêu cầu then chốt là phải luôn kiên trì, bình tĩnh, sáng suốt xử lý đúng đắn mọi vấn đề phức tạp trong đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ quyền, lãnh thổ. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng của cả hệ thống chính trị, trong đó ngành Ngoại giao là những người đi đầu. Trước những diễn biến của tình hình thế giới như đã nói ở trên, việc thực hiện nhiệm vụ bao trùm này sẽ có nhiều thách thức trong thời gian tới.
Để tranh thủ và tận dụng tối đa cơ hội, kiểm soát và hoá giải các thách thức, ứng phó tốt với những chuyển biến bên ngoài, chúng ta phải luôn nhớ lời dạy của Hồ Chủ tịch là "mọi việc thành công bởi chữ đồng", theo đó phải luôn đề cao xây dựng sự đoàn kết và đồng thuận trong nước. Điểm đồng ở đây là bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; Đảng, Nhà nước và tất cả mọi người đều phải vì dân, vì nước. Có như thế, trong triển khai công tác đối ngoại mới có thể "kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại", thực hiện phương châm "dĩ bất biến ứng vạn biến", nhất là giữ "trái tim nóng, cái đầu lạnh" và "kiên quyết, kiên trì" để xử lý các thách thức đối ngoại. Cố gắng tìm kiếm và tranh thủ điểm đồng về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát triển trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế.
Ba là, phát huy tối đa mọi yếu tố thuận lợi của đất nước để chủ động, tích cực tham gia đóng góp, xây dựng, định hình các cơ chế đa phương, thực hiện Chỉ thị số 25 của Ban Bí thư về nâng tầm công tác đối ngoại đa phương, coi đó là một định hướng chiến lược quan trọng, trong đó có việc xây dựng Chiến lược tổng thể về đối ngoại đa phương đến năm 2030. Theo đó, công việc trọng tâm của thời gian tới là triển khai và phát huy các kết quả quan trọng của Năm APEC Việt Nam 2017, nhất là phối hợp với các đối tác thực hiện các sáng kiến của ta đã được APEC thông qua. Cần thể hiện vai trò xứng đáng trong quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN và củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong các cấu trúc an ninh khu vực, chuẩn bị các điều kiện để hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN vào năm 2020. Tiếp tục tham gia tích cực trong khuôn khổ hoạt động của Liên hợp quốc, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc. Đẩy mạnh vận động các nước ủng hộ Việt Nam ứng cử làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 và hoàn thành tốt trọng trách này.
Bốn là, cần nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác kinh tế và hợp tác trên lĩnh vực chính trị, an ninh - quốc phòng với các nước; tiếp tục đưa các mối quan hệ với các đối tác mà ta đã có khuôn khổ quan hệ, trước hết là các nước láng giềng và các nước lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả; ưu tiên duy trì ổn định và giữ đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực, đồng thời xử lý các khác biệt và vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp tác, hữu nghị, kiểm soát bất đồng, dựa trên luật pháp quốc tế và thông lệ khu vực.
Năm là, tiếp tục triển khai có hiệu quả chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nhất là Nghị quyết 06 của Ban Chấp hành Trung ương về việc "Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới" và "Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030". Thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế, trọng tâm là các cam kết trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN, CPTPP, Tổ chức Thương mại thế giới.
Nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển bền vững của đất nước. Ưu tiên tìm kiếm và mở rộng thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và lao động Việt Nam, thu hút nguồn vốn, nhất là FDI và ODA hướng vào các lĩnh vực ưu tiên của đất nước. Đẩy mạnh vận động các đối tác công nhận quy chế kinh tế thị trường theo lộ trình cam kết của WTO. Tích cực cùng các nước thúc đẩy đàm phán, phê chuẩn và thực hiện các thoả thuận FTA đa phương; nghiên cứu khả năng tham gia các sáng kiến đa phương trong khu vực về kết nối kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng; tiến hành đàm phán các FTA song phương với các nước, nhất là với các đối tác thương mại lớn.
Sáu là, hết sức coi trọng, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác nghiên cứu và dự báo chiến lược, tập trung đánh giá kỹ các xu hướng vận động trong chính sách và quan hệ giữa các nước lớn, các nước láng giềng, khu vực, các xu hướng chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội trên thế giới và khu vực, nhất là trước tác động như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong trung và dài hạn, phải lường trước các kịch bản về thay đổi trật tự thế giới, khu vực và phải chuẩn bị sẵn kế hoạch ứng phó. Phải nhận thức rõ những điểm mạnh, điểm yếu của mình, định vị được mình trong tình hình mới để hoạch định chiến lược, chính sách cho phù hợp. Có thể nói, công tác nghiên cứu và dự báo chiến lược là vô cùng quan trọng để giữ được sự chủ động trong một thế giới đầy biến động phức tạp. Trung ương Đảng mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn đánh giá cao các báo cáo chiến lược của ngành Ngoại giao cũng như các cơ quan tham mưu đối ngoại. Tuy nhiên, yêu cầu đối với công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược trong thời gian tới là rất cao, rất nhiều thách thức, tôi mong các đồng chí quan tâm nhiều hơn nữa đến công tác này.
Bảy là, nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ban, ngành và địa phương, nhất là giữa ngoại giao với quốc phòng - an ninh trong triển khai công tác đối ngoại và hội nhập của Đảng và Nhà nước. Trong thời kỳ hội nhập toàn diện, xu hướng toàn cầu hoá và liên kết, hợp tác là tất yếu thì sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, bộ, ngành có ý nghĩa rất quan trọng để thực hiện thành công nhiệm vụ chung cũng như nhiệm vụ của mỗi ngành.
Tám là, để hoàn thành được những nhiệm vụ nêu trên, phải đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Ngành, tập trung vào hai nhiệm vụ chính là sắp xếp tổ chức bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ.
Về tổ chức, ngành Đối ngoại, nhất là Bộ Ngoại giao, cần tích cực thực hiện các chủ trương và cuộc vận động lớn của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, sắp xếp tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại giao, từ các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài đến các đơn vị trong nước, hướng tới tổ chức tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý theo Nghị quyết Trung ương 6 khoá XII. Tổ chức, sắp xếp Đảng bộ Ngoài nước và các tổ chức Đảng bộ Bộ Ngoại giao một cách hợp lý, khoa học.
Về công tác cán bộ, tôi xin nhắc lại bài học Đảng ta đã rút ra, đó là "cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Chúng ta đang ở trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng. Công tác cán bộ cũng phải đáp ứng yêu cầu này. Trong suốt chiều dài của cách mạng, Đảng ta luôn rất coi trọng công tác cán bộ của ngành Ngoại giao. Trong những năm tháng khó khăn, gian khổ nhất của cách mạng, chúng ta luôn có những nhà ngoại giao xuất sắc, những con người đã trở thành tấm gương của mọi thế hệ về lòng yêu nước, về tinh thần tự học hỏi, về bản lĩnh chính trị, về phong cách và nghệ thuật ngoại giao. Có thể nói, đó là những nhà ngoại giao, những chính khách được bạn bè quốc tế ghi nhận.
Thế hệ cán bộ ngoại giao hôm nay được thừa hưởng những truyền thống, kinh nghiệm vô cùng quý báu mà các thế hệ trước để lại; được tạo điều kiện thuận lợi về đào tạo và công tác. Mặt bằng chung về học vấn của cán bộ ngành Ngoại giao là rất cao so với các ngành khác. Tôi được biết trong Bộ Ngoại giao hiện nay có nhiều đồng chí có năng lực, được đồng nghiệp và bạn bè quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ, chúng ta cần tiếp tục coi trọng hơn nữa công tác đào tạo cán bộ ngoại giao, cả về trình độ, năng lực lẫn bản lĩnh chính trị, đặc biệt là bản lĩnh chính trị. Các đồng chí phải không ngừng rèn luyện vững vàng về chính trị, luôn trung thành tuyệt đối với lý tưởng của Đảng, với lợi ích của dân tộc, tỉnh táo trước sự tác động của các thế lực thù địch, chủ động tích cực phòng ngừa không để "tự diễn biến", "tự chuyển hoá", vướng vào tham nhũng, tiêu cực. Càng hội nhập sâu với thế giới, chúng ta càng cần có các nhà ngoại giao có bản lĩnh chính trị; đủ trình độ, uy tín, phong cách để sánh vai với các nước, bạn bè quốc tế; toàn tâm, toàn ý vì sự nghiệp. Một nhà ngoại giao giỏi trước hết phải là một nhà chính trị giỏi, luôn lấy lợi ích của quốc gia, của chế độ làm kim chỉ nam trong hành động. Nhà ngoại giao luôn ghi nhớ rằng, phía sau mình là Đảng, là đất nước, là nhân dân. Phải tự tin, vững vàng, kiên định và khôn khéo.
Tôi tin tưởng rằng, trong thời gian tới, dù phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, các thế hệ cán bộ đối ngoại vẫn tiếp tục thể hiện được trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức và cốt cách của nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh và kế tiếp được truyền thống đối ngoại quật cường nhưng hoà hiếu của dân tộc Việt Nam, tiếp tục giành được sự tin tưởng, ủng hộ, và theo đó là sự quan tâm thích đáng của Đảng và Nhà nước, cũng như sự kỳ vọng của nhân dân.
Chúc các đồng chí sức khỏe, hạnh phúc và thắng lợi.
Chúc Hội nghị của chúng ta thành công.
---------------------
(*) Đầu đề là của Báo Nhân Dân.